Trang nhất » Rao vặt » Dịch vụ

TÌM KIẾM
Dịch vụ

Đánh giá năng lực cạnh tranh trong NHTM như thế nào

Thông tin mua bán
Mã tin
V142200
Giá
Thỏa thuận
Ngày đăng
17/03/2018
Hết hạn
17/03/2019
Xem :
301
Danh mục đăng tin
Nơi rao
Toàn quốc
Loại tin đăng
Họ tên
nguyenthithiennga332
Điện thoại
Địa chỉ
Nội dung chi tiết

Chấm điểm theo ma trận EFE
Ma trận đánh giá các yếu tố môi trường bên ngoài (EFE) giúp ta tóm tắt và lượng hóa những ảnh hưởng của yếu tố môi trường tới Vietcombank. Ma trận EFE được phát triển theo 5 bước:

Bước 1: Lập danh mục các yếu tố cơ hội và nguy cơ chủ yếu, có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của từng ngân hàng trong ngành (thông thường là khoảng từ 10 đến 20 yếu tố).

Bước 2: ấn định tầm quan trọng bằng cách phân loại từ 0,0 (không quan trọng) đến 1,0 (quan trọng nhất) cho mỗi yếu tố. Cần lưu ý, tầm quan trọng được ấn định cho các yếu tố cho thấy tầm quan trọng tương đối của yếu tố đó với thành công của ngân hàng trong ngành kinh doanh. Tổng tầm quan trọng của các yếu tố được liệt kê là bằng 1

Bước 3: Phân loại từ 1 đến 4 cho mỗi yếu tố đại diện (thực tế có thể định khoảng điểm rộng hơn). Cho điểm yếu lớn nhất khi phân loại bằng 1, điểm yếu nhỏ nhất khi phân loại bằng 2, điểm mạnh nhỏ nhất khi phân loại bằng 3 và điểm mạnh lớn nhất khi phân loại bằng 4. Như vậy, đây là điểm số phản ánh mức độ phản ứng của ngân hàng với những cơ hội và nguy cơ từ môi trường.

Bước 4: Tính điểm cho từng yếu tố bằng cách nhân mức độ quan trọng của yếu tố đó với điểm số phân loại tương ứng.

Bước 5: Tính tổng điểm cho toàn bộ các yếu tố được đưa ra trong ma trận bằng cách cộng điểm số các yếu tố thành phần tương ứug của mỗi ngân hàng.

Xem thêm:

Khái niệm văn hoá doanh nghiệp

Vai trò của văn hóa doanh nghiệp

Theo đó, nếu tổng số điểm của toàn bộ danh mục các yếu tố được đưa vào ma trận EFE là 4 thì ngân hàng có phản ứng tốt với những cơ hội và nguy cơ từ môi trường, và có năng lực cạnh tranh cao. Nếu từ 2,50 trở lên, thì ngân hàng có phản ứng trên mức trung bình. Ngược lại, tổng số điểm trong ma trận EFE nhỏ hơn 2,50 thì phản ứng của ngân hàng thấp hơn mức trung bình, phản ánh năng lực cạnh tranh là yếu.

Bước 6: Tiến hành so sánh các ngân hàng với nhau

Mô hình CAMEL
Hệ thống đánh giá CAMEL do Cục Quản lý các tổ hợp tín dụng Hoa Kỳ (National Credit Union Administration – NCUA) xây dựng, song không chỉ có Hoa Kỳ mà còn có nhiều nước trên thế giới áp dụng, trong đó có Việt Nam. Phân tích theo chỉ tiêu CAMEL dựa trên 5 yếu tố cơ bản được sử dụng để đánh giá hoạt động của một ngân hàng, đó là: Qui mô vốn, Chất lượng tài sản có, Quản lý, Lợi nhuận, và Thanh khoản.

– Qui mô vốn (Capital adequacy): Qui mô vốn thể hiện số vốn tự có để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đây là yếu tố quan trọng đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một ngân hàng nếu có mức vốn tự có càng lớn thì khả năng chịu đựng rủi ro càng cao, phạm vi hoạt động càng rộng. Qui mô vốn lớn được coi là tiền đề quyết định việc nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính ngân hàng và để phát triển thị trường thực hiện chiến lược cạnh tranh của NHTM. Qui mô vốn còn được xem xét trên chỉ tiêu hệ số an toàn vốn và được tính theo tỉ lệ phần trăm của tổng vốn cấp I và vốn cấp II so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng.

CAR = [(Vốn cấp I + Vốn cấp II) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%

Qua hệ số này có thể xác định được khả năng của ngân hàng thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành. Hay nói cách khác, khi ngân hàng đảm bảo được hệ số này tức là nó đã tự tạo ra một tấm đệm chống lại những cú sốc về tài chính, vừa tự bảo vệ mình, vừa bảo vệ những người gửi tiền.

– Chất lượng tài sản có (Assetsquality): Chỉ tiêu này nhằm mục đích phân tích chất lượng tài sản có bằng cách thẩm định định tính và định lượng đối với các khoản cho vay và mức độ rủi ro đầu tư khác nhau của ngân hàng. Việc đánh giá chất lượng tài sản có của ngân hàng là đánh giá tính vững mạnh, lành mạnh về mặt tài chính của ngân hàng. Đây là yếu tố quan trọng vì sự thất bại của hầu hết các ngân hàng thường bắt nguồn từ sự yếu kém của chất lượng tài sản có và các khoản cho vay. Do đó, khi phân tích vần xem xét xu hướng tăng/giảm hoạt động cho vay của ngân hàng, chất lượng danh mục các khoản cho vay, phân loại các khoản cho vay và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Để phân tích chất lượng tài sản có, thường sử dụng các chỉ tiêu tài chính sau: Nợ quá hạn/Tổng dư nợ; Nợ quá hạn/Tổng dư nợ đến hạn.

– Năng lực quản lý (Management cacity ): Đây là yếu tố quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, qua đó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Để đánh giá chỉ tiêu này người ta thường xem xét ở những khía cạnh sau: Năng lực, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp quản lý và điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý; Kết quả hoạt động kinh doanh của ban điều hành trong nhiệm kỳ vừa qua của ban điều hành đó; Các chính sách liên quan đến tuyển dụng và sử dụng cán bộ, chính sách luân chuyển cán bộ trong nội bộ ngân hàng và giữa các chi nhánh; Các chương trình đào tạo và huấn luyện; Xác định mục tiêu kinh doanh và chiến lược của ngân hàng bao gồm các chiến lược về danh mục cho vay, về nguồn vốn, về tài chính và sản phẩm; Khả năng ứng phó của cơ chế điều hành trước diễn biến của thị trường.

– Khả năng sinh lời (Earing): Khả năng sinh lời là yếu tố quyết định thành công hay thất bại của một NHTM. Đây là dấu hiệu chi tiết nhất về khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Thu nhập cao tạo điều kiện cho ngân hàng đầu tư vào sản phẩm và công nghệ mới; tạo lợi nhuận cho cổ đông; trang trải các rủi ro mà không làm suy yếu vốn. Tuy vốn nhiều hơn sẽ bảo vệ ngân hàng khi xảy ra khủng hoảng, nhưng thu nhập ít thì cũng là rào cản cho các hoạt động đầu tư và phát triển; hậu quả là ngân hàng sẽ mất vị thế của mình và có thể sẽ phải đối mặt với khủng hoảng. Để đánh giá lợi nhuận của NHTM, thường sử dụng các chỉ tiêu sau:

Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu – ROE (Return on Equity)

ROE = (Lãi ròng sau thuế/Vốn chủ sở hữu)*100%

ROE là chỉ số đo lường hiệu quả sử dụng vốn tự có của ngân hàng. Nó cho biết trong kỳ, một đồng vốn chủ sở hữu mang lại cho bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. ROE đặc trưng cho khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và giải thích làm thế nào vốn của các chủ sở hữu được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. ROE còn cho biết số lợi nhuận ròng mà các cổ đông có thể nhận được từ sự đầu tư vốn của mình. Nếu ROE quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn của ngân hàng chiểm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn vốn. Vốn kinh doanh vì vậy sẽ chủ yếu là nguồn vốn huy động và như vậy có thể ảnh hưởng tới mức độ lành mạnh trong kinh doanh ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) tối thiểu cần đạt là 15%.

Tỷ lệ lợi nhuận ròng/tổng tài sản bình quân – ROA (Return on Assets)

ROA = (Lãi ròng sau thuế/Tài sản)*100%

ROA là công cụ đo lường tính hiệu quả của việc phân phối và quản lý các nguồn lực của ngân hàng, giúp xác định hiệu quả kinh doanh tính trên một đồng tài sản có: cứ một đồng tài sản có đem kinh doanh trong kỳ sẽ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. ROA càng lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng càng tốt, cơ cấu tài sản hợp lý, ngân hàng có sự điều chỉnh linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản có trước những biến động của nền kinh tế. Nó khác ROE ở chỗ nó cho biết tỷ lệ lợi nhuận mang lại cho vốn chủ sở hữu và cả chủ nợ, trong khi ROE chỉ cho biết lợi nhuận mang lại cho chủ sở hữu mà thôi.

Lợi nhuận ròng trên tài sản có sinh lời: chỉ số này cho biết chất lượng quản lý và kinh doanh của TCTD có hiệu quả hay không, thông thường phải đạt mức 5% trở lên và càng cao càng tốt.

– Khả năng thanh khoản (Liquidity): Tính thanh khoản của ngân hàng là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn vốn. Mức độ thanh khoản được đánh giá theo khả năng thanh toán nhanh chóng các khoản tiền gửi; tần suất & mức độ sử dụng nguồn vốn đi vay của ngân hàng; năng lực chuyên môn liên quan đến cơ cấu tài sản nợ; mức độ sẵn có của tài sản có có thể chuyển đổi thành tiền mặt và mức độ tiếp cận với thị trường tiền tệ hoặc những nguồn vốn khác. Mức độ thanh khoản của một ngân hàng phải được đánh giá theo từng giai đoạn và từng thời điểm cụ thể. Các chỉ số dùng để phân tích khả năng thanh toán của NHTM như:

– Tài sản có thanh khoản/Tổng tiền gửi: đây là chỉ số cơ bản dùng để phân tích khả năng thanh khoản, nói lên khả năng ngân hàng trong việc đáp ứng các nhu cầu rút tiền của công chúng.

– Tài sản có thanh khoản/tổng tiền gửi và các loại kỳ phiếu phải trả: đo lường mức độ đáp ứng đầy đủ về các tài sản có có khả năng thanh khoản của ngân hàng đối với nhu cầu rút tiền và thanh toán cho các quỹ đi vay. Chỉ số này thường phải lớn hơn 30% mới được coi là tốt.

– Dư nợ ròng/tổng tiền gửi và các loại kỳ phiếu phải trả. Hệ số này cao cho thấy mức độ sử dụng tiền gửi cao & sử dụng các quỹ đi vay để tài trợ cho các khoản vay cao. Tuy nhiên, nếu chỉ số này quá cao sẽ đe dọa trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Các ngân hàng thường duy trì chỉ số này ở mức 70% đến 80%.

Mô hình hồi quy bằng phần mềm SPSS
– Thang đo
Thang đo năng lực cạnh tranh được xây dựng trên cơ sở lý thuyết về năng lực cạnh tranh và kết quả nghiên cứu định tính.
– Mẫu nghiên cứu
Mẫu được chọn theo phương pháp chọn mẫu theo xác xuất. Kích thước mẫu theo tiêu chuẩn là 5:1 (tức là 5 mẫu cho 1 biến quan sát).

Nguồn : https://thuevietluanvan.net/mo-hinh-danh-gia-nang-luc-canh-tranh-cua-ngan-hang-thuong-mai/

Tin đăng cùng chuyên mục